Trong thời kỳ 2021 – 2030, hệ thống cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Thủ đô Hà Nội và khu vực TP.HCM với 30 cảng hàng không.
Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 648/QĐ – TTg (ngày 7/6) về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đây là quy hoạch ngành quốc gia cuối cùng trong lĩnh vực giao thông được Chính phủ phê duyệt. Trước đó, 4 quy hoạch ngành quốc gia do Bộ GTVT lập đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt gồm: đường bộ, đường sắt, cảng biển, đường thủy nội địa.
Theo Quyết định số 648, mục tiêu đến năm 2030, tổng sản lượng hành khách thông qua các cảng hàng không đạt khoảng 275,9 triệu hành khách (chiếm 1,5-2% thị phần vận tải giao thông và chiếm 3-4% tổng sản lượng vận tải hành khách liên tỉnh).
Tổng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng hàng không đạt khoảng 4,1 triệu tấn (chiếm 0,05-0,1% thị phần vận tải giao thông).
Về kết cấu hạ tầng, Quy hoạch xác định ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng thủ đô Hà Nội (Cảng hàng không quốc tế Nội Bài) và vùng TP.HCM (Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và Long Thành); từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả các cảng hàng không hiện hữu, tiếp tục nghiên cứu, đầu tư các cảng hàng không mới để nâng tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 294,5 triệu hành khách, phấn đấu trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km.
Về tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch xác định sẽ hình thành 2 trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế ngang tầm khu vực tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng TP.HCM. Đầu tư đưa vào khai thác các cảng hàng không mới phấn đấu khoảng 97% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km. Mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không tại các trung tâm kinh tế vùng, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Đặc biệt, Quy hoạch xác định sẽ đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng và thiết bị bảo đảm hoạt động bay, đồng bộ, hiện đại ngang tầm quốc tế; hình thành các trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay hiện đại.
Về quy hoạch hệ thống cảng hàng không toàn quốc, trong thời kỳ 2021 – 2030, hệ thống cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Thủ đô Hà Nội và khu vực TP.HCM, hình thành 30 cảng hàng không.
Trong số này có 14 cảng hàng không quốc tế: Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc; 16 cảng hàng không quốc nội: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Thành Sơn và Biên Hòa (sân bay Thành Sơn và sân bay Biên Hòa được quy hoạch thành cảng hàng không để khai thác lưỡng dụng).
Quy hoạch mới cũng tiếp tục duy trì vị trí quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 tại huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng.
Về tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch xác định sẽ hình thành 33 cảng hàng không, bao gồm: 14 cảng hàng không quốc tế: Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc; 19 cảng hàng không quốc nội: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Biên Hoà, Thành Sơn và Cảng hàng không thứ 2 phía Đông Nam, Nam Thủ đô Hà Nội.
Đáng chú ý, trước đó UBND TP Hà Nội đã đề nghị Thủ tướng, Bộ GTVT quy hoạch sân bay thứ 2 là sân bay quốc tế. Tuy nhiên, theo quy hoạch được phê duyệt, sân bay thứ 2 của Hà Nội vẫn là sân bay quốc nội.
Đặc biệt, Chính phủ cho phép nghiên cứu, khảo sát, đánh giá khả năng quy hoạch thành cảng hàng không đối với một số sân bay phục vụ quốc phòng, an ninh; một số vị trí quan trọng về khẩn nguy, cứu trợ, có tiềm năng phát triển về du lịch, dịch vụ và các vị trí khác có thể xây dựng, khai thác cảng hàng không; báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét việc bổ sung quy hoạch khi đủ điều kiện, trong đó đánh giá kỹ lưỡng về nhu cầu, yêu cầu kỹ thuật, nguồn lực đầu tư và các tác động liên quan.
Các sân bay này gồm: sân bay Hà Giang tại xã Tân Quang, huyện Bắc Quang; sân bay Yên Bái tại phường Nam Cường, TP. Yên Bái (hiện đang là sân bay quân sự Yên Bái); sân bay Tuyên Quang tại xã Năng Khả, huyện Na Hang; sân bay Gia Lâm tại phường Phúc Đồng, quận Long Biên, TP. Hà Nội (hiện đang là sân bay quân sự Gia Lâm); sân bay Gia Bình tại xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (sân bay chuyên dùng phục vụ an ninh – quốc phòng); sân bay Hà Tĩnh tại xã Cẩm Nam, huyện Cẩm Xuyên; sân bay Măng Đen tại thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum; sân bay Lý Sơn tại xã An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sân bay Phú Quý tại xã Ngũ Phụng, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận; sân bay Vạn Thắng tại xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa; sân bay Đắk Nông tại xã Quảng Khê, huyện Đắk Glong; sân bay Tây Ninh xã Phước Ninh, huyện Dương Minh Châu.
Ước tính nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 420.000 tỷ đồng, được huy động từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.