(FDI Việt Nam) – Tuy chính sách thuế đối ứng của Mỹ với hàng nhập khẩu có thể gây ra chiến tranh thương mại, nhưng những hệ lụy của nó còn vượt xa khỏi lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là việc làm xói mòn quyền lực mềm và ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội của Mỹ.

HỆ LỤY TỪ CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI ỨNG CỦA MỸ
Thông báo của Tổng thống Mỹ Donald Trump về việc áp thuế đối ứng với hàng hóa nhập khẩu từ hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, có hiệu lực từ ngày 9/4, đã gây ra tâm lý lo lắng và hoang mang trên khắp thế giới.
Mặc dù ông Trump tuyên bố chính sách này sẽ giúp “đưa nước Mỹ giàu có trở lại” và những tác động kinh tế, bao gồm cả nguy cơ chiến tranh thương mại do các biện pháp trả đũa, đều nằm trong dự tính của Nhà Trắng, thì vẫn còn những hệ lụy xã hội và ảnh hưởng phi kinh tế đáng kể cần được cân nhắc. Đặc biệt, chính sách này có thể làm tổn hại đến “quyền lực mềm” của Mỹ.
Các mức thuế cao không chỉ nhắm vào đối thủ cạnh tranh chiến lược như Trung Quốc (thêm 34%), mà còn là một “tiếng sét ngang tai” đối với các đồng minh thân cận như Hàn Quốc (25%), Nhật Bản (24%), các nước châu Âu và nhiều đối tác thương mại hàng đầu khác của Mỹ.
Ngay cả những hòn đảo không có người ở gần Nam cực cũng bị áp thuế, khiến Thủ tướng Australia Anthony Albanese phải thốt lên rằng “không nơi nào trên Trái Đất an toàn” trước “cơn bão” thuế của Tổng thống Mỹ.
Ngay sau khi Mỹ công bố mức thuế đối ứng vô tiền khoáng hậu, lãnh đạo nhiều nước đã lên tiếng bày tỏ lo ngại động thái này sẽ ảnh hưởng tới mối quan hệ song phương và hợp tác quốc tế. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk đăng dòng trạng thái: “Tình bạn đồng nghĩa với quan hệ đối tác. Quan hệ đối tác bao gồm thuế quan tương ứng.”
Tương tự, Thủ tướng Australia Anthony Albanese tuyên bố “Đây không phải là hành động của một người bạn” và sẽ làm thay đổi nhận thức về mối quan hệ song phương Australia – Mỹ. Thủ tướng Italy Giorgia Meloni gọi các biện pháp của ông Donald Trump là “sai lầm,” còn Ngoại trưởng Đan Mạch Lars Lokke Rasmussen bình luận: “Không có ai thắng, mà tất cả đều thua.”
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI ỨNG ĐẾN QUYỀN LỰC MỀM CỦA MỸ
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ quyết định áp thuế 46% đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chưa phù hợp với thực tế hợp tác kinh tế-thương mại cùng có lợi giữa hai nước, không phản ánh đúng tinh thần quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, tác động tiêu cực đến quan hệ kinh tế – thương mại song phương và lợi ích của người dân, doanh nghiệp hai nước.
Theo giới phân tích, tăng thuế đồng nghĩa với việc người tiêu dùng Mỹ sẽ phải mua hàng đắt hơn nhiều so với trước, song đây không hoàn toàn chỉ là vấn đề kinh tế. Giá hàng hóa tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng hơn tới những nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội.
Thuế nặng đánh vào các nhóm hàng như thực phẩm chế biến, dệt may, da giày – vốn là những mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong chi tiêu thiết yếu của người dân, đặc biệt là những người thu nhập thấp và trung bình. Khi những nhu cầu cơ bản về “cái ăn, cái mặc” ngày càng khó được đáp ứng, những mầm mống bất ổn xã hội có khả năng xuất hiện, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Mỹ vẫn ẩn chứa những dấu hiệu bất ổn.

Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, Mỹ từng áp hạn ngạch nhập khẩu và tăng thuế quan với các nhà sản xuất ôtô Nhật Bản với cáo buộc họ phá hoại ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ.
Mặc dù nước đi này của Washington đã thực sự khiến một số công ty Nhật Bản như Nissan và Toyota chuyển địa điểm sản xuất sang Mỹ, song giá ô tô, kể cả những loại sản xuất ở Mỹ, tăng cao chóng mặt. Điều này kéo tụt nhu cầu – thật ra là khả năng, mua sắm ôtô mới của người dân Mỹ, khiến nhiều công ty Mỹ phải thu hẹp quy mô và hơn 60.000 người mất việc làm.
Trong khi chưa có dấu hiệu tích cực nào về khả năng giải quyết được những vấn đề trong nước, chính sách thuế đối ứng gây sốc đang dẫn tới những hoài nghi về vai trò dẫn dắt của Mỹ trong hệ thống thương mại toàn cầu.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, “chiếc ô an ninh” và sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với thương mại tự do, cùng với việc loại bỏ các rào cản thương mại, đã đóng góp quan trọng vào những thành quả kinh tế toàn cầu. Trong nhiều thập kỷ, vị trí chủ chốt của Mỹ trong các cơ chế thương mại đa phương như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã xây dựng hình ảnh một đối tác luôn sẵn sàng hỗ trợ, nhất quán và minh bạch.
Tuy nhiên, động thái áp thuế đột ngột của chính quyền Washington, không phân biệt đồng minh hay đối thủ, đang làm lung lay hình ảnh này. Điều này đẩy thế giới đứng trước nguy cơ đổ vỡ trật tự thương mại tự do toàn cầu mà chính Mỹ đã tiên phong xây dựng.
Nhiều chuyên gia cho rằng Tổng thống Trump sử dụng thuế quan cho ba mục tiêu chính: giảm tình trạng “không công bằng” về thương mại, tăng ngân sách liên bang, và làm công cụ đàm phán. Mặc dù vậy, giới chuyên gia nhận định rằng thuế quan cao có thể là con dao hai lưỡi.
Nó có thể giúp Mỹ đạt được các thỏa thuận kinh tế có lợi hơn, nhưng đồng thời lại làm xói mòn quyền lực mềm và tầm ảnh hưởng của nước này ở những khu vực chiến lược như Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Với chính sách thương mại đơn phương, Mỹ có nguy cơ tự cô lập mình khỏi cấu trúc kinh tế đang phát triển nhanh chóng ở khu vực này.
Thuế quan của Mỹ cũng khiến việc đa dạng hóa quan hệ kinh tế và chính trị trở nên cấp thiết. Nhiều đối tác thân thiết của Mỹ đang tìm kiếm mối quan hệ đối tác thương mại thay thế. Liên minh châu Âu (EU) đang xem xét lại các mối quan hệ thương mại toàn cầu mục tiêu, tìm cách mở ra các cơ hội thị trường mới ở châu Á, Trung Đông…
Một số nước Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Thái Lan tìm đường gia nhập nhóm các nền kinh tế mới nổi BRICS. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) tìm cách xích lại gần hơn với các nền kinh tế trong và ngoài khu vực.
Điều này có thể là động lực thúc đẩy các thỏa thuận đa phương như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc đình trệ lâu nay. Thuế cao có thể khiến Mỹ phải đứng ngoài cuộc chơi. Cách tiếp cận của Nhà Trắng vô hình trung lại củng cố một trật tự thương mại mới mà trong đó vai trò của Mỹ giảm sút nghiêm trọng.
Ngay trong nội bộ nước Mỹ, chính sách thuế đối ứng mới cũng vấp phải sự phản đối đáng kể. Điển hình là bang California đã công khai chỉ trích và khẳng định sẽ tự tìm cách mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác nước ngoài. Sự thiếu nhất quán trong cách tiếp cận thuế đối ứng còn thể hiện rõ ngay trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ.

Trong khi Tổng thống Trump bày tỏ sẵn sàng đàm phán thuế với các quốc gia “nếu họ đưa ra điều gì đó phi thường,” thì Cố vấn Thương mại hàng đầu của ông, Peter Navarro, lại kiên quyết khẳng định đây không phải là vấn đề có thể đàm phán, mà là “tình trạng khẩn cấp quốc gia.” Những thông điệp trái ngược phát đi từ Washington không chỉ làm nản lòng các đối tác quốc tế, mà quan trọng hơn, còn gây ra sự đổ vỡ lòng tin – một tài sản vô hình nhưng vô giá trong quan hệ quốc tế.
KHUYẾN NGHỊ CHO QUAN HỆ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Thực tế cho thấy, quan hệ thương mại luôn là nền tảng vững chắc để thúc đẩy hợp tác chính trị, đồng thời trở thành đòn bẩy gia tăng vị thế và tầm ảnh hưởng của một quốc gia, thậm chí cả một khu vực. Lịch sử đã chứng minh Mỹ nhiều lần sử dụng hợp tác thương mại như một cầu nối cho quan hệ đối tác và phục vụ các mục tiêu chiến lược của mình.
Điển hình là việc Mỹ từng thúc đẩy Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) như một phần của chiến lược xoay trục sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương. TPP không chỉ là một thỏa thuận thương mại đơn thuần, mà còn được thiết kế để củng cố tầm ảnh hưởng, thiết lập luật chơi mới trong khu vực mà Mỹ có nhiều lợi ích chiến lược.
Tuy nhiên, chính sách thuế đối ứng hiện tại dường như đang đẩy Mỹ ra xa quỹ đạo hợp tác. Dù Mỹ vẫn là nền kinh tế số một, nhưng vị thế dẫn dắt không chỉ dựa trên sự giàu có, mà còn phụ thuộc vào uy tín, khả năng tạo dựng lòng tin và tầm ảnh hưởng.
Trong một thế giới ràng buộc lẫn nhau về thương mại, việc dựng lên các hàng rào thuế quan tùy tiện chẳng khác nào tự tay phá bỏ những nhịp cầu nối và quay trở lại với chủ nghĩa biệt lập, đặc biệt khi thuế quan cũng là một công cụ của cạnh tranh địa chính trị.
Những hậu quả địa chính trị có thể nhìn thấy rõ ràng: việc áp dụng thuế quan đơn phương thiếu cân nhắc có nguy cơ đẩy cả những đồng minh lâu năm ra xa, làm suy yếu lòng tin và suy giảm ảnh hưởng của Mỹ tại nhiều khu vực.
Đây là bài toán lợi – hại cần cân nhắc khi Mỹ áp dụng thuế đối ứng. Một cách tiếp cận thương mại hợp lý hơn, dựa trên quan hệ đối tác, với các điều khoản cân bằng lợi ích kinh tế và cân nhắc về địa chính trị, hài hòa lợi ích của các bên, có thể là giải pháp tối ưu.
Nguồn: Vietnam+